Nguy cơ mắc trầm cảm suốt đời của bạn là bao nhiêu?

Ước tính cho thấy cứ ba phụ nữ thì có một người, và cứ năm nam giới thì có một người từng trải qua một giai đoạn trầm cảm nặng trước 65 tuổi.

· 7 phút đọc · lượt xem.

Ước tính cho thấy cứ ba phụ nữ thì có một người, và cứ năm nam giới thì có một người từng trải qua một giai đoạn trầm cảm nặng trước 65 tuổi.

Trầm cảm là một trong những tình trạng sức khỏe phổ biến nhất trên toàn cầu. Ước tính rằng từ 2 đến 6% dân số thế giới đã từng trải qua trầm cảm trong vòng một năm qua.

Nhưng khả năng một người từng mắc trầm cảm vào bất kỳ thời điểm nào trong đời là bao nhiêu?

Câu hỏi này không dễ để trả lời vì trầm cảm không phải là một tình trạng liên tục – con người thường trải qua và thoát khỏi các giai đoạn trầm cảm. Vì thế, khả năng từng có một giai đoạn trầm cảm trong đời cao hơn nhiều so với tỷ lệ 2 đến 6% nói trên.

Các nhà nghiên cứu ước tính rằng khoảng một phần ba phụ nữ và một phần năm nam giới tại Hoa Kỳ đã từng trải qua một giai đoạn trầm cảm nặng trước khi bước sang tuổi 65. Các nghiên cứu ở các quốc gia thu nhập cao khác còn cho thấy tỷ lệ này còn cao hơn. Tại Hà Lan và Úc, ước tính rằng 40% phụ nữ và 30% nam giới bị ảnh hưởng bởi tình trạng này.

Trong bài viết này, tôi sẽ giải thích lý do vì sao việc đo lường nguy cơ trầm cảm suốt đời lại đầy thách thức, và cách các nhà nghiên cứu đối mặt với những thách thức này để ước tính nguy cơ mắc trầm cảm nặng trong suốt cuộc đời của một người.

Thách thức trong việc đo lường trầm cảm suốt đời

Một cách để ước tính nguy cơ trầm cảm suốt đời là hỏi người cao tuổi rằng họ đã từng bị trầm cảm trong đời hay chưa. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng cách này lại gặp phải nhiều vấn đề.

Một trong số đó là phương pháp này dựa vào việc tự khai báo. Trầm cảm nặng được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng mà người bệnh chia sẻ với chuyên gia. Vì một số người không sẵn lòng chia sẻ những triệu chứng này, nên nếu chỉ dựa vào thông tin đó, chúng ta sẽ đánh giá thấp nguy cơ trầm cảm.

Điều này đặc biệt quan trọng với các thế hệ lớn tuổi, những người đã sống phần lớn cuộc đời trong bối cảnh mà việc nhận thức và chấp nhận bệnh tâm thần còn rất hạn chế. Đây cũng liên quan đến một vấn đề thứ hai: người thuộc các thế hệ khác nhau có thể kém sẵn lòng khai báo các triệu chứng.

Một vấn đề khác là việc thu thập những ước tính này ở quy mô toàn cầu là rất khó, vì dữ liệu ở nhiều quốc gia vẫn còn thiếu. Điều này đặc biệt đúng với các quốc gia thu nhập thấp. Ví dụ, nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật toàn cầu (Global Burden of Disease) cho thấy chỉ có một phần tư quốc gia và vùng lãnh thổ có dữ liệu trực tiếp về tỷ lệ trầm cảm nặng từ năm 2005 đến 2015.

Điều này có nghĩa là phần lớn các phát hiện hiện tại đến từ một nhóm nhỏ các quốc gia thu nhập cao – nơi có đủ điều kiện để tiến hành các nghiên cứu như vậy.

Nhưng ngay cả tại những quốc gia có dữ liệu, vẫn tồn tại một thách thức lớn khác. Mọi người thường quên mất những giai đoạn trầm cảm trước đó – đặc biệt nếu chúng xảy ra từ lâu. Điều này được gọi là thiên lệch ghi nhớ (recall bias), và nó là một trong những vấn đề khiến việc dựa vào tự khai báo triệu chứng để đánh giá trầm cảm trở nên không đáng tin cậy.

Bạn có thể thấy điều này qua biểu đồ sau. Biểu đồ này đến từ một nghiên cứu lớn, trong đó những người tham gia được phỏng vấn nhiều lần, cách nhau nhiều năm, về các triệu chứng bệnh lý thể chất và tâm thần mà họ từng trải qua.

Một số người mô tả rằng họ từng trải qua trầm cảm giữa hai lần phỏng vấn. Nhưng cũng có người không nhớ lại những giai đoạn trầm cảm mà họ từng mô tả trong các lần phỏng vấn trước. Điều này dẫn đến một tỷ lệ người mô tả có trầm cảm suốt đời gần như không đổi ở mỗi lần phỏng vấn.

Như chúng ta có thể đoán, người lớn tuổi có xu hướng quên các triệu chứng trước đó nhiều hơn. Những người trên 60 tuổi có khả năng quên các giai đoạn trầm cảm trước cao hơn khoảng 7 lần so với những người dưới 50 tuổi.

Điều này có nghĩa là chúng ta cần thận trọng khi sử dụng dữ liệu khảo sát – nếu không điều chỉnh cho thiên lệch ghi nhớ, ta sẽ đánh giá thấp nguy cơ trầm cảm suốt đời.

Ước tính nguy cơ trầm cảm suốt đời

Để tránh những vấn đề kể trên, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng mô hình để ước tính nguy cơ trầm cảm trong suốt cuộc đời của một người.

Họ có thể xem xét độ tuổi của những người từng mô tả rằng mình trải qua trầm cảm trong năm qua, sau đó sử dụng hồ sơ tuổi này để ước tính nguy cơ tích lũy theo thời gian.

Các nghiên cứu sử dụng phương pháp này đã ước tính rằng nguy cơ trầm cảm đến năm 75 tuổi ở Hoa Kỳ là 30% vào năm 2005.

Các nhà nghiên cứu cũng có thể ước tính nguy cơ suốt đời bằng cách ước lượng tỷ lệ những người đã quên các giai đoạn trầm cảm trước đó. Một nghiên cứu của Jamie Tam và các đồng nghiệp đã sử dụng cách tiếp cận này với dữ liệu gần đây hơn. Họ thực hiện điều này dựa trên dữ liệu tự khai báo trầm cảm trong năm vừa qua và trong suốt cuộc đời, kết hợp với tỷ lệ sai lệch ghi nhớ.

Bạn có thể thấy điều này qua biểu đồ. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng cứ ba phụ nữ (33%) thì có một người, và cứ năm nam giới (19%) thì có một người từng mắc trầm cảm nặng trước tuổi 65 tại Hoa Kỳ. Theo tuổi tác, tỷ lệ người trải qua một giai đoạn trầm cảm trong năm vừa qua chỉ giảm nhẹ. Nhưng tỷ lệ người quên đi các giai đoạn trước đó lại tăng mạnh.

Sau tuổi 65, tỷ lệ trầm cảm suốt đời giảm xuống, vì những người từng bị trầm cảm có ít khả năng sống đến tuổi già hơn.

Cũng có những ước tính từ các quốc gia thu nhập cao khác. Ví dụ, một nghiên cứu năm 2005 sử dụng dữ liệu từ Hà Lan và Úc đã ước tính rằng 40% phụ nữ và 30% nam giới từng trải qua một giai đoạn trầm cảm nặng trước tuổi 65, sau khi điều chỉnh cho các sai lệch.

Tất cả các nghiên cứu đều đồng thuận rằng nguy cơ mắc trầm cảm trong suốt đời là rất cao – cao hơn nhiều so với những ước tính chỉ dựa vào việc hỏi người cao tuổi nhớ lại các trải nghiệm trầm cảm trong đời.

Nguy cơ đáng kể của trầm cảm trong suốt đời là lý do lớn để chúng ta cần hiểu rõ, nhận biết và đối diện với căn bệnh này. Trầm cảm không hiếm gặp, và những người từng trải qua nó không hề đơn độc.

Tuy nhiên, nguy cơ trầm cảm không cố định theo thời gian. Trầm cảm không phải là điều không thể tránh hay không thể phục hồi. Chúng ta có thể nỗ lực để phòng ngừa và giảm thiểu tác động của nó đối với những người đang đối mặt.

nhavantuonglai

Bài viết gần đây