Spinoza dạy chúng ta gì về cuộc sống vĩ đại?
Baruch Spinoza là triết gia sống vào thời kỳ Hoàng Kim của Hà Lan – thời kỳ mà toán học và các ngành khoa học khác phát triển rực rỡ.
· 11 phút đọc · lượt xem.
Baruch Spinoza (1632 – 1677) là một triết gia sống vào thời kỳ Hoàng Kim của Hà Lan – thời kỳ mà toán học và các ngành khoa học khác phát triển rực rỡ.
Hành trình trở thành triết gia của Spinoza diễn ra đầy sóng gió sau một cuộc xung đột dài với đức tin Do Thái truyền thống mà ông được nuôi dạy – dẫn đến việc ông bị cộng đồng Sephardic tại Amsterdam khai trừ một cách nghiêm khắc.
Sự khai trừ này xuất phát từ tác phẩm Tractatus theologico politicus (Luận thuyết thần học – Chính trị), một trong những tác phẩm đầu tiên có tính phê phán Kinh Thánh được viết và phổ biến rộng rãi ở phương Tây.
Dù điều này khiến Spinoza bị mang tiếng là dị giáo và vô thần, ông tin rằng mình hoàn toàn không phải như vậy. Trái lại, ông cho rằng hệ thống triết học và thần học mà ông kiến tạo – chỉ dựa vào lý trí – nếu được thực hành, sẽ khiến con người trở nên lý trí hơn, đạo đức hơn và hạnh phúc hơn.
Từ mê mờ tới tỉnh thức
Hành trình trí tuệ của Spinoza bắt đầu từ một trạng thái mà hầu hết chúng ta vẫn ở trong – và với nhiều người, tình trạng ấy kéo dài đến tận cái chết, một thực tế khiến ta rúng động về mặt hiện sinh.
Trong tác phẩm đầu tiên của mình, Tractatus de Intellectus Emendatione (Luận Thuyết Về Cải Thiện Sự Hiểu Biết), gần như mang tính tự truyện, Spinoza chia sẻ một sự thức tỉnh hiện sinh: phần lớn đời sống thường nhật mà ta trải qua là vô nghĩa, và những điều mà phần đông chúng ta khao khát thực ra là vô ích khi theo đuổi.
Rốt cuộc, cuối mỗi ngày, khoái lạc thoáng qua, danh vọng hay của cải liệu có mục đích gì, ngoài việc nuôi dưỡng lòng phù phiếm của ta? Tận sâu bên trong, những điều ấy không thực sự quan trọng, và khi chúng biến mất – điều tất yếu – thì niềm vui của ta cũng tan theo.
Điều quan trọng nhất mà Spinoza nhận ra là: con người không hoàn toàn làm chủ các quyết định của chính mình.
Chúng ta thường hành động trái với lợi ích tốt nhất của bản thân, hoặc như cách Spinoza diễn đạt: chúng ta nhìn thấy điều thiện nhưng vẫn chọn điều ác. Nguyên nhân là do cảm xúc chi phối chúng ta nhiều hơn là chúng ta kiểm soát được chúng – và đây thường không phải là loại cảm xúc mà ta muốn dẫn dắt hành vi của mình.
Hãy xem chuyện gì xảy ra khi ta hành động theo những gì nỗi hận thù, lo âu hay hệ thống dopamine điều khiển vô thức mách bảo. Chúng ta rất thường – có thể là chủ yếu – hành động trong sự kìm kẹp của cảm xúc, chứ không phải sau khi suy xét kỹ lưỡng, mà chỉ vì ta cảm thấy như thế.
Hệ quả là, các quyết định của ta thường tệ hại – ngay cả theo tiêu chuẩn của chính mình – và tích tụ lại thành một cuộc đời kém cỏi. Mỗi người trong chúng ta đều có một cách tồn tại và hành động lý tưởng riêng, nhưng những quyết định thấp kém ấy đã ngăn cản ta sống theo phiên bản tốt nhất của bản thân.
Người nào hay nghi ngờ thì giống như làn sóng trên biển, bị gió thổi và xô đẩy tứ phương.
(James 1:6).
Lý tưởng cuộc sống và câu hỏi lớn nhất
Rõ ràng, ai trong chúng ta cũng từng mường tượng ra một cuộc sống mà mình ao ước – một đời sống đáng kính, đầy đủ với bản thân và có giá trị đối với người khác.
Những khát vọng ấy không phải là ham muốn vật chất hay thực dụng, mà mang tính tinh thần. Tuy vậy, phần lớn chúng ta đều chưa chạm đến lý tưởng đó.
Hiện sinh và thực nghiệm đều chứng minh: đây là sự thật về bản chất con người. Nếu vậy thì chúng ta phải làm gì?
Có câu hỏi nào quan trọng hơn câu này không? Dĩ nhiên là không!
Vì thế, ta hãy tìm đến tác phẩm Ethica (Đạo đức học) của Spinoza – kiệt tác mà ông viết ra nhằm giải quyết chính nan đề hiện sinh này.
Người sống lý trí có thật sự tồn tại? Chắc chắn chúng ta đều từng gặp những người sống hoàn toàn trái ngược với hình ảnh con người trung bình của Spinoza: đó là những người lý trí, hành động vì lợi ích của bản thân và người khác, và nhờ vậy sống một đời vui vẻ và khỏe mạnh.
Điều gì khiến họ khác biệt? Họ sinh ra đã như vậy? Hay họ rèn luyện được một kỹ năng mà hầu hết chúng ta chưa từng nghe đến?
Spinoza tin rằng những bậc hiền nhân có trách nhiệm và vui sống, biết hành động theo lý trí mà không cần thúc ép, thực sự tồn tại – nhưng số lượng họ vô cùng hiếm hoi.
Phần còn lại của nhân loại thì sao? Ta cần rèn luyện điều gì đó – nhưng là điều gì và bằng cách nào?
Henry David Thoreau từng nói: Làm triết gia không chỉ là suy nghĩ tinh tế, hay sáng lập trường phái, mà là yêu mến minh triết đến mức sống theo lẽ minh triết đó.
Nhưng yêu mến minh triết đến mức sống theo nó nghĩa là gì? Làm sao để sống như vậy?
Tại sao loài người lại có xu hướng mạnh mẽ tới mức hành động và tin vào những cảm xúc như ghen tuông, oán giận, vô ơn, sô vanh, hằn học và thù hận?
Và tại sao ta lại khó lòng thoát ra khỏi những xu hướng quá đỗi con người ấy?
Gốc rễ của vấn đề theo Spinoza
Spinoza cho rằng vấn đề cốt lõi chính là sự thiếu hiểu biết. Nô lệ, theo ông, phát sinh từ sự ngu dốt sâu sắc về bản chất của thực tại.
Và bởi vì ngu dốt này, chúng ta trở nên dễ bị tổn thương bởi các tác nhân bên ngoài ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý.
Chúng ta không biết điều gì về thực tại đang kìm hãm mình?
Nhiều điều.
Ví dụ, Spinoza cho rằng thực tại có tính tất định – một quan điểm có thể được vật lý hiện đại xác nhận – và vì vậy, ý chí tự do chỉ là ảo tưởng.
Chúng ta thường tin rằng tồn tại có một trật tự có chủ đích – dù là ý định của Thượng Đế hay biện chứng của Marx, ta thường tin rằng mọi hiện tượng đều có lý do hợp lý và có cân nhắc.
Spinoza thì dạy rằng: ta và mọi sự vật đều là kết quả của một chuỗi nguyên nhân vô tận.
Ngày nay, khoa học cũng nói điều tương tự: sau Vụ Nổ Lớn, các vì sao xuất hiện, rồi đến hành tinh và sự sống sinh học. Tất cả điều đó không xảy ra vì ai đó mong muốn hay định trước, mà là do sự tất yếu của các định luật tự nhiên.
Chúng ta không bị cảm xúc chi phối vì chúng ta xấu, mà chỉ đơn giản là do tự nhiên đã sắp đặt như vậy.
Nhưng thường thì, ta không nhận ra điều này, và sống trong niềm tin rằng ta là những người xấu – một điều hoàn toàn sai sự thật.
Việc thay thế những sai lầm như thế bằng sự thật đối lập chính là lời giải cho nan đề hiện sinh, theo Spinoza.
Chấp nhận thực tế và những giới hạn của ta
Chúng ta cần chấp nhận rằng có những nguyên nhân bên ngoài – như sinh học, văn hóa và điều kiện kinh tế – vốn mạnh hơn ta rất nhiều và giới hạn khả năng hành động, tư duy theo cách mà ta mong muốn.
Tất cả điều đó, kết hợp với sự bất lực trong việc điều tiết cảm xúc, dẫn đến một cuộc sống hạng hai.
Việc nhận thức được điều này là bước đầu tiên để giải phóng khỏi nô lệ.
Theo Spinoza, khi một ý tưởng đúng thay thế một ý tưởng sai, sự tham gia của ta vào tư duy và hành động tăng lên.
Do đó, nhận ra sự thật của thực tại – rằng cảm xúc và ngoại cảnh điều khiển ta – sẽ như thổi một ngọn lửa trong bụng, thúc đẩy ta tiến thêm những bước đến tự do.
Bước tiếp theo là yêu bản thân.
Tự yêu thương: Định nghĩa của Spinoza
Spinoza định nghĩa tự yêu thương rất đơn giản: đó là cảm giác vui thích nảy sinh khi ta nhận ra chính mình – chứ không phải cảm xúc hay yếu tố bên ngoài – là nguyên nhân của một hành động hay suy nghĩ.
Làm sao ta biết được mình là nguyên nhân? Khi ta hành động và suy nghĩ theo cách đưa bản thân đến gần hơn với hình mẫu lý tưởng riêng biệt của mình.
Ý tưởng ở đây là: càng hành động như vậy, ta càng có khả năng yêu bản thân sâu sắc hơn.
Yêu bản thân cũng bao gồm việc bảo tồn chính mình – nghĩa là chăm lo cho nhu cầu của bản thân trước khi giúp người khác.
Nhu cầu ở đây không phải là mong muốn. Nó nghĩa là thật sự chăm sóc chính mình bằng cách đắm chìm trong những điều ta quan tâm, đồng thời coi việc chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần là điều thiết yếu.
Phấn đấu để củng cố những phần mạnh mẽ và quan trọng nhất trong bản thân chính là đức hạnh, theo Spinoza.
Hành động vì lợi ích lý trí của bản thân – để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình, chứ không phải một kẻ theo chủ nghĩa tự do giáo điều – chính là đức hạnh theo tinh thần Spinoza.
Phúc lạc là sự mãn nguyện của tâm trí phát sinh từ đức hạnh.
Phúc lạc và người khác
Tuy nhiên, phúc lạc không phải là kết thúc câu chuyện.
Vậy còn những người khác thì sao? Ta không thể sống cô lập. Dù muốn hay không, ta vẫn sống cùng nhau.
Spinoza tin rằng, một khi đạt được đức hạnh, ta không thể không mong muốn điều tương tự cho người khác.
Điều này không có nghĩa là: Hãy nhìn tôi, tôi là nhà văn và có thân hình cân đối, nên bạn cũng nên làm như tôi.
Chẳng có lý gì nếu mọi người đều có mục tiêu cụ thể giống nhau – điều này vừa bất khả thi, vừa đòi hỏi sự cưỡng ép, đi ngược lại với bản chất của đức hạnh.
Thay vào đó, ta nên mong muốn cho người khác điều tốt mà ta đã đạt được thông qua sự hiểu biết: đó là khả năng hành động và tư duy để tạo ra lý tưởng riêng của mỗi người.
Ý nghĩa ở đây là: điều đó khác nhau với mỗi cá nhân.
Nếu mọi người đều đạt được đức hạnh theo cách này, chúng ta sẽ trở nên hữu ích hơn cho nhau.
Ví dụ, nếu ai cũng làm đúng công việc phù hợp nhất với năng lực, nhu cầu và sở thích của mình, thì chúng ta sẽ có một lực lượng lao động hợp tác và hiệu quả hơn nhiều.
Chưa kể, nhiều người trong chúng ta sẽ đạt được phúc lạc, tạo ra sự chung sống hòa bình và hạnh phúc hơn giữa các cá nhân.
Khoa học đương đại và Spinoza
Khoa học thần kinh và tâm lý học hiện đại đã xác nhận niềm tin của Spinoza về đạo đức, tri thức và tâm lý học con người.
Chúng ta chủ yếu quy chiếu bản thân, bị chi phối bởi cảm xúc vô thức và không kiểm soát được.
Và, thông qua việc theo đuổi ý nghĩa, phát triển nhân cách, tự quyết và tự bảo tồn, chúng ta có thể vượt qua những xu hướng tự nhiên ấy để sống một cuộc đời khôn ngoan và hiện thực hóa bản thân.
Kết luận: Đức hạnh là khó, nhưng không bất khả
Spinoza kết thúc Ethica bằng việc thừa nhận rằng việc đạt được đức hạnh là điều khó khăn:
Nếu con đường tôi chỉ ra để dẫn tới điều này nay có vẻ rất khó, thì cũng không phải là không thể tìm ra. Và đương nhiên, điều gì càng quý hiếm thì càng khó. Bởi nếu sự cứu rỗi dễ dàng và có thể đạt được mà không cần nỗ lực lớn, thì làm sao gần như tất cả mọi người đều lơ là nó? Nhưng mọi điều tuyệt vời đều khó như chính chúng hiếm hoi vậy.
Rất có thể hầu hết chúng ta – nếu không muốn nói là phần lớn – sẽ không đạt được lý tưởng vĩ đại Spinoza đề ra.
Nhưng khó có thể phủ nhận rằng lý tưởng ấy đáng theo đuổi.
Và có lẽ, dù biết rằng rất khó đạt được, ta vẫn nên đi theo con đường ấy.
